CHIẾN LƯỢC ĐỘT PHÁ KHCN CỦA VIỆT NAM THÔNG QUA 11 NHÓM CÔNG NGHỆ CHIẾN LƯỢC
Chiến lược đột phá KHCN của Việt Nam hướng tới chuyển đổi mô hình phát triển, từ chủ yếu gia công, lắp ráp sang làm chủ công nghệ, thiết kế và sáng tạo sản phẩm công nghệ “Make in Vietnam” ở các công đoạn giá trị cao. Điều này thể hiện quyết tâm nâng cao năng lực tự chủ công nghệ và tránh phụ thuộc vào bên ngoài trong các lĩnh vực then chốt. Nhà nước định hướng giao các doanh nghiệp công nghệ nòng cốt đảm nhận các dự án lớn về chuyển đổi số và công nghệ chiến lược - “một mũi tên trúng hai đích” vừa làm chủ công nghệ mới, vừa hình thành doanh nghiệp Việt đủ tầm cạnh tranh quốc tế. Có thể thấy, chiến lược đột phá KHCN của Việt Nam được thiết kế với tầm nhìn dài hạn, huy động cả nguồn lực nhà nước và tư nhân, cùng cải cách thể chế để KHCN thực sự trở thành trụ cột phát triển.
Theo Quyết định số 1131/QĐ-TTg (năm 2025), Chính phủ xác định 11 nhóm công nghệ chiến lược trọng tâm, kèm 35 nhóm sản phẩm ưu tiên, bao gồm: Trí tuệ nhân tạo, bản sao số và thực tế ảo/tăng cường; Điện toán đám mây, điện toán lượng tử và dữ liệu lớn; Công nghệ chuỗi khối; Mạng di động thế hệ sau (5G/6G); Robot và tự động hóa; Chip bán dẫn; Công nghệ y sinh tiên tiến; Năng lượng và vật liệu mới; Công nghệ về đất hiếm, đại dương, lòng đất; An ninh mạng; Công nghệ hàng không, vũ trụ.
Việc công bố các nhóm công nghệ trên nhằm định hướng chiến lược phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn cho tương lai, từ đó tạo bước “nhảy vọt” về trình độ KHCN quốc gia. Đây là những lĩnh vực công nghệ mà Việt Nam kỳ vọng vừa bắt kịp xu thế thế giới (AI, 5G/6G, blockchain, chất bán dẫn...), vừa tận dụng lợi thế riêng (như tiềm năng đất hiếm, cơ hội năng lượng ngoài khơi). Chính phủ đã chỉ đạo Bộ KH&CN phối hợp các bộ, ngành xây dựng chương trình phát triển tương ứng cho từng nhóm công nghệ chiến lược. Chẳng hạn, sẽ hình thành hệ thống trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược để hỗ trợ nghiên cứu triển khai trong các lĩnh vực này. Danh mục công nghệ chiến lược cũng được yêu cầu thiết kế mở và linh hoạt, thường xuyên cập nhật để bổ sung công nghệ mới, chấp nhận những rủi ro trong công nghệ mới nổi. Nhìn chung, nhóm 11 công nghệ chiến lược quốc gia thể hiện bước đi cụ thể hóa mục tiêu đưa KHCN thực sự trở thành động lực then chốt cho phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh - chủ quyền công nghệ của Việt Nam trong giai đoạn tới.
THÁCH THỨC TRONG VIỆC TRIỂN KHAI CHIẾN LƯỢC
Mặc dù định hướng chiến lược đã rõ ràng và quyết liệt, Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức từ trong và ngoài nước trong quá trình triển khai. Dưới đây là những thách thức chính trong việc triển khai chiến lược:
Hạn chế về năng lực nội tại
Nền tảng KHCN trong nước còn yếu so với yêu cầu các lĩnh vực công nghệ cao. Hiện tại, phần lớn công nghệ cốt lõi Việt Nam sử dụng vẫn có nguồn gốc ngoại nhập; năng lực nghiên cứu chế tạo trong nước chỉ mới ở mức độ nhất định trong một số lĩnh vực (ví dụ: viễn thông, công nghệ thông tin, sinh học, nông nghiệp). Việt Nam hiện tụt hậu khá xa trong các lĩnh vực như vũ trụ, bán dẫn, AI, tàu cao tốc... Rõ ràng, năng lực nội tại yếu là thách thức hàng đầu: Việt Nam cần một chu kỳ phát triển KHCN mạnh mẽ hơn để thu hẹp khoảng cách với thế giới.
Chất lượng nhân lực KHCN
Chất lượng nguồn nhân lực KHCN của Việt Nam hiện chưa đáp ứng yêu cầu phát triển các công nghệ chiến lược tiên tiến. Mặc dù số lượng nhân lực trình độ cao tăng nhanh (hơn 14.000 tiến sĩ, 11.000 thạc sĩ vào năm 2020), song đội ngũ chuyên gia giỏi, đầu ngành còn thiếu trầm trọng ở nhiều lĩnh vực công nghệ cao. Nhân lực nghiên cứu phát triển (R&D) cho các công nghệ mới rất mỏng - Việt Nam thiếu chuyên gia về trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, kỹ thuật lượng tử, robot, vật liệu mới… Thêm vào đó, hiện tượng “chảy máu chất xám” cũng đáng lo ngại: nhiều nhân tài KHCN chọn ở lại nước ngoài hoặc chuyển sang khu vực tư nhân, do môi trường nghiên cứu trong nước còn hạn chế về đãi ngộ và điều kiện làm việc. Đây sẽ vẫn là điểm nghẽn trong ngắn hạn, đòi hỏi chiến lược bài bản và đầu tư dài hạn vào giáo dục – đào tạo, đặc biệt ở các ngành KHCN, kỹ thuật, toán học (STEM) và quản trị công nghệ.
Sự phối hợp giữa các bên liên quan
Để phát triển các công nghệ chiến lược, cần sự chung tay của nhà nước – viện trường – doanh nghiệp. Tuy nhiên, mối liên kết giữa các bên ở Việt Nam còn lỏng lẻo, hiệu quả hạn chế. Trong quá khứ, các viện nghiên cứu và trường đại học công lập hoạt động khá tách biệt với nhu cầu doanh nghiệp, dẫn đến nhiều kết quả nghiên cứu không được chuyển giao vào sản xuất. Tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam có hoạt động R&D còn thấp, chủ yếu tập trung ở vài tập đoàn lớn. Thách thức còn lại là thay đổi tư duy và hành vi hợp tác: các viện trường cần chủ động kết nối với doanh nghiệp, định hướng nghiên cứu theo “đặt hàng” của thị trường; ngược lại doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư cho R&D nội bộ thay vì chỉ nhập khẩu công nghệ sẵn có. Việc phối hợp “4 nhà” (Nhà nước - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp - nhà đầu tư) nhịp nhàng hơn sẽ quyết định thành bại của chiến lược đột phá KHCN trong thực tế.
Hội nhập và cạnh tranh quốc tế về công nghệ
Phát triển công nghệ chiến lược không thể tách rời bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng về khoa học và kinh tế. Thách thức đặt ra cho Việt Nam là làm sao vừa học hỏi tinh hoa công nghệ thế giới, vừa bảo vệ được lợi ích và chủ quyền công nghệ quốc gia. Nghị quyết số 57 nhấn mạnh Việt Nam phải “chú trọng đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu phát triển công nghệ với các quốc gia có trình độ KHCN cao”, đặc biệt trong các lĩnh vực như AI, công nghệ sinh học, lượng tử, bán dẫn, năng lượng nguyên tử… Điều này mở ra cơ hội tiếp nhận chuyển giao công nghệ nguồn từ các nước tiên tiến (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật, EU, Hàn Quốc…). Tuy nhiên, cạnh tranh địa chính trị về công nghệ cũng đòi hỏi Việt Nam khéo léo hợp tác đa phương để tránh lệ thuộc vào một phía, đồng thời không đứng ngoài chuỗi cung ứng toàn cầu. Bên cạnh đó, hàng rào sở hữu trí tuệ và các giới hạn kiểm soát công nghệ nhạy cảm như công nghệ hạt nhân, lượng tử, viễn thông 5G… từ các cường quốc có thể cản trở việc tiếp cận công nghệ cao.
Nội lực hạn chế cũng khiến nguy cơ tụt hậu luôn hiện hữu nếu Việt Nam không bắt kịp tốc độ đổi mới của thế giới. Do đó, bài toán hội nhập công nghệ đòi hỏi Việt Nam phải chủ động và linh hoạt: tích cực tham gia các mạng lưới nghiên cứu quốc tế, chuẩn hóa sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời xây dựng năng lực tự phát triển ở những công nghệ cốt lõi để đảm bảo an ninh. Một tín hiệu tích cực là nhiều trí thức Việt Nam ở nước ngoài bày tỏ sẵn sàng góp sức cho quê hương làm chủ công nghệ chiến lược, tạo cầu nối tri thức toàn cầu về Việt Nam. Tận dụng tốt chất xám kiều bào và hợp tác quốc tế sẽ giúp Việt Nam rút ngắn con đường đi đến mục tiêu của mình.
MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÁC QUỐC GIA PHÁT TRIỂN
Chính sách và chiến lược phát triển của Hàn Quốc
Hàn Quốc đã xây dựng một chiến lược dài hạn mang tên K - Innovation Strategy (năm 2020), lấy KHCN cùng đổi mới sáng tạo làm động lực chính để trở thành một cường quốc công nghệ. Với tầm nhìn vươn tới top 5 toàn cầu và dẫn đầu trong 12 lĩnh vực công nghệ chiến lược quốc gia. Để thực thi các chiến lược này, Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập Ủy ban Đổi mới KHCN Quốc gia để điều phối toàn bộ các hoạt động liên quan.
Về đầu tư, Hàn Quốc duy trì mức chi 4,8–5% GDP cho R&D, thuộc nhóm cao nhất thế giới. Trọng tâm đầu tư là các lĩnh vực mũi nhọn như bán dẫn, AI, 6G, pin thế hệ mới và năng lượng tái tạo. Đồng thời, chương trình Digital New Deal (năm 2020) được triển khai nhằm số hóa toàn xã hội, xây dựng hạ tầng điện toán đám mây và AI.
Chính sách phát triển nhân lực và sáng tạo cũng được chú trọng mạnh mẽ. Hàn Quốc đã thực hiện chương trình đào tạo AI 10 năm (2019 - 2029) với mục tiêu đào tạo 100.000 chuyên gia AI và thu hút tài năng toàn cầu qua các chương trình như K - Startup Grand Challenge. Các doanh nghiệp được khuyến khích đầu tư mạnh vào R&D và chuyển giao công nghệ. Các khu công nghệ cao như Pangyo Techno Valley, được mệnh danh là “Thung lũng Silicon của Hàn Quốc,” đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới. Các khu vực này liên kết chặt chẽ giữa đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp, tạo ra một hệ sinh thái sáng tạo mạnh mẽ.
Các ngành công nghiệp trọng điểm của Hàn Quốc bao gồm: Bán dẫn và chip nhớ; Mạng 5G/6G; AI và Big Data; Pin và năng lượng mới; Robot và công nghiệp thông minh. Tầm nhìn đến năm 2030 - 2050 của Hàn Quốc là đứng trong top 5 quốc gia công nghệ toàn cầu, tự chủ về các công nghệ cốt lõi và trở thành một xã hội số hóa, xanh và sáng tạo.
Chính sách và chiến lược phát triển của Nhật Bản
Nhật Bản đã khởi xướng chiến lược dài hạn Society 5.0 từ năm 2016 nhằm xây dựng một xã hội siêu thông minh, tích hợp công nghệ số, IoT, AI, Big Data, Robot, Blockchain và công nghệ sinh học để giải quyết các thách thức lớn như dân số già và vấn đề môi trường. Chính phủ Nhật Bản cũng xây dựng Kế hoạch KHCN cơ bản định kỳ 5 năm/lần, với trọng tâm là “đổi mới tạo giá trị” và “tăng cường năng lực cạnh tranh”.
Về đầu tư R&D, Nhật Bản duy trì mức chi 3,2– 3,5% GDP, cũng nằm trong nhóm cao nhất thế giới. Các khoản đầu tư này được đổ vào các dự án lớn như siêu máy tính Fugaku, mạng 5G/6G, pin thế hệ mới và công nghệ xanh. Hệ thống các phòng thí nghiệm quốc gia liên ngành cũng được thúc đẩy nhằm tăng cường hợp tác giữa đại học, doanh nghiệp và chính phủ.
Chính sách phát triển nhân lực và sáng tạo của Nhật Bản bao gồm chương trình Abenomics khuyến khích khởi nghiệp và các chương trình thu hút tài năng quốc tế trong các lĩnh vực công nghệ cao. Giáo dục STEM và đào tạo kỹ sư AI/robot được đặc biệt chú trọng để xây dựng lực lượng lao động chất lượng cao. Các khu công nghệ cao như Tsukuba Science City đóng vai trò là trung tâm nghiên cứu và đổi mới lớn nhất. Các khu vực đặc biệt về đổi mới (Special Zones for Innovation) được thiết lập để thử nghiệm các công nghệ mới như AI, xe tự hành và năng lượng tái tạo.
Các ngành công nghiệp trọng điểm của Nhật Bản bao gồm: Robot và Tự động hóa; AI và Dữ liệu lớn; Công nghệ xanh; Công nghệ y sinh; Vật liệu tiên tiến. Tầm nhìn đến năm 2030 - 2050 của Nhật Bản là xây dựng một xã hội tích hợp giữa người, máy và dữ liệu, an toàn và bền vững. Mục tiêu là duy trì vị thế cường quốc công nghệ cao, đối trọng với Mỹ và Trung Quốc và trở thành quốc gia tiên phong trong công nghệ xanh và xã hội siêu thông minh (Society 5.0).
MỘT SỐ BÀI HỌC VÀ GỢI Ý CHO VIỆT NAM
Bài học từ Nhật Bản và Hàn Quốc
Nhật Bản chọn trọng tâm ít lĩnh vực nhưng kiên định lâu dài: robot, vật liệu, năng lượng xanh, y tế, Society 5.0. Đầu tư ổn định và liên tục, gắn với chính sách xã hội (già hóa dân số, thiếu lao động). Khai thác sức mạnh của các tập đoàn toàn cầu (Sony, Toyota, Panasonic).
Hàn Quốc tập trung mũi nhọn vào bán dẫn, pin, 5G/6G với đầu tư cho R&D/GDP cao (≈5%) nhưng có chọn lọc; Chính phủ định hướng, doanh nghiệp thực hiện, các doanh nghiệp đa quốc gia như Samsung, LG, Hyundai là “đầu tàu kéo cả ngành”.
Nếu Việt Nam chọn 11 công nghệ chiến lược để phát triển cùng lúc thì sẽ bị loãng, thiếu trọng tâm, dễ đi sau và phụ thuộc nhập khẩu công nghệ. Thay vào đó, nên chọn 3 - 5 công nghệ trụ cột để đầu tư đột phá, còn lại theo dõi và hợp tác quốc tế. Đây là con đường mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã thành công, phù hợp với nguồn lực còn hạn chế của Việt Nam.
Một số gợi ý cho Việt Nam
Việt Nam đã có khung chính sách nhưng dễ “dàn hàng ngang”. Nghị quyết số 57 NQ/TW đã xác định KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá; Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 193/2025/QH15 cho phép thí điểm cơ chế đặc biệt; Thủ tướng ban hành Quyết định số 1131/QĐ TTg với 11 nhóm công nghệ và 35 sản phẩm, giải pháp chủ lực. Đây là nền tảng thể chế rất hiếm khi hội tụ cùng lúc, nhưng nếu triển khai theo lối “mỗi nơi một ít”, rủi ro lớn nhất là phân tán nguồn lực. Hơn nữa, 11 có thể là quá nhiều cho một nền kinh tế mà tỉ lệ chi cho R&D/GDP còn thấp (Việt Nam khoảng 0,6% nhiều năm gần đây, trong khi Hàn Quốc khoảng 5%, Nhật Bản khoảng 3,4%). Nếu không “khoanh vùng trận địa”, ta sẽ đi theo sau ở hầu hết lĩnh vực. Sau đây là gợi ý một số phương châm và tiêu chí lựa chọn lĩnh vực chiến lược:
Thứ nhất, phương châm chọn “Ít nhưng tinh, tập trung đột phá” thay vì “dàn hàng ngang”. Định hướng xã hội và dân số dựa trên công nghệ y tế - chăm sóc sức khỏe, công nghệ xanh giảm phát thải.
Thứ hai, tiêu chí lựa chọn công nghệ lõi liên quan đến quốc phòng - an ninh (an ninh mạng, mật mã hậu lượng tử, công nghệ chuỗi khối), những lĩnh vực gắn chặt với nhu cầu xã hội và lợi thế riêng của Việt Nam như nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo. Công nghệ cần thiết cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa và chuyển đổi số quốc gia như bán dẫn, ứng dụng AI, công nghệ dữ liệu lớn.
Thứ ba, xây dựng hệ sinh thái doanh nghiệp - viện nghiên cứu - đại học để nuôi dưỡng dài hạn. Tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu thay vì tự cô lập. Hiện nay, Việt Nam đang tạo điều kiện cho doanh nghiệp dẫn dắt công nghệ và liên kết với FDI thay vì Nhà nước tự làm hết.
[Quý độc giả đón đọc Tạp chí An toàn thông tin số 4 (086) 2025 tại đây]