NHỮNG THÀNH TỰU CỦA TRUNG QUỐC TRONG TỰ CHỦ PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG NGHỆ LÕI
Từ năm 2018 đến năm 2023, chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển của Trung Quốc đã tăng gần 70%, tạo ra tác động toàn cầu bằng cách liên tục thúc đẩy các công nghệ tiên tiến. Theo The Global Times cho biết, trong năm 2023, xét về số đơn nộp xin cấp bằng sáng chế, Trung Quốc dẫn đầu bảng xếp hạng các quốc gia trên thế giới.
Theo Chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2023 của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, 24 cụm khoa học và công nghệ của Trung Quốc đã lọt vào danh sách 100 cụm khoa học và công nghệ hàng đầu thế giới, cao nhất trong số tất cả các quốc gia.
Sự thành công của Trung Quốc là kết quả của gần 20 năm lên kế hoạch và triển khai rất quyết liệt, đồng bộ, rốt ráo và liên tục từ trên xuống dưới với mọi thành phần chính trị cùng tham gia. Trong đó, sự phát triển hệ điều hành nội địa mã nguồn mở của Trung Quốc là một trọng tâm trong chiến lược hoàn toàn độc lập và tự chủ của Trung Quốc đối với ngành công nghiệp phát triển phần mềm.
OPENKYLIN, HỆ ĐIỀU HÀNH BẢN ĐỊA MÃ NGUỒN MỞ CỦA TRUNG QUỐC
Nguy cơ đến từ việc phụ thuộc vào các phần mềm nước ngoài
Ngay từ năm 1999, cơ quan an ninh của Trung Quốc đã hiểu rằng sự phụ thuộc vào phần mềm nước ngoài độc quyền là một lỗ hổng lớn. Hà Đức Toàn, một học giả của Viện Hàn lâm Kỹ thuật Trung Quốc năm đó đã đề xuất phát triển các công nghệ chiến lược cho an ninh thông tin. Ông kêu gọi Trung Quốc phát triển hệ điều hành riêng.
Năm 2001, ông Chu Dung Cơ với cương vị là Thủ tướng Trung Quốc đã yêu cầu các bộ, ngành nghiên cứu các khái niệm về an ninh thông tin của Hà Đức Toàn và xây dựng các chính sách phù hợp. Quan điểm của ông Hà có thể được các nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc coi trọng.
Tờ Wall Street Journal gần đây đã tiết lộ một chỉ thị của Chính phủ Trung Quốc năm 2022, có tên là Tài liệu 79, yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước phải thay thế phần mềm nước ngoài độc quyền như hệ điều hành, dịch vụ email và trình xử lý văn bản trong hệ thống CNTT của họ bằng các phiên bản do Trung Quốc xây dựng vào năm 2027. Đây là một phần trong nỗ lực kéo dài nhiều thập kỷ của Trung Quốc nhằm trở nên tự chủ về mặt công nghệ trước sự cạnh tranh chiến lược từ các quốc gia khác, đồng thời sử dụng phần mềm nguồn mở như một phương tiện để thu hẹp khoảng cách công nghệ.
Trung Quốc bắt đầu theo đuổi phần mềm nguồn mở vào những năm 1990 khi Gong Ming, người sáng lập Beijing Ningsi Software (hay còn gọi là Linx Software) chuyển các bản sao của hệ điều hành Linux từ Phần Lan sang Trung Quốc. Với hành động đó, Gong hiện được biết đến là cha đẻ của Linux Trung Quốc và tiếp tục phát triển phần mềm cho Chính phủ bao gồm phần mềm cho MSS, đóng vai trò trung tâm trong việc định hình các chính sách của Bắc Kinh nhằm xây dựng hệ sinh thái nguồn mở của riêng mình mà họ có thể kiểm soát.
Hệ điều hành và một số phần mềm khác rất quan trọng vì chúng có thể gây ra rủi ro an ninh mạng đáng kể nếu các lỗ hổng của chúng không được vá, như đã thấy rõ trong EternalBlue, một cửa hậu do Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ phát triển. Đó là lý do tại sao Bắc Kinh từ lâu đã nghi ngờ các hệ điều hành nước ngoài như Windows và macOS, lo ngại rằng các Chính phủ nước ngoài có thể tích hợp các lỗ hổng mà họ có thể khai thác để làm tê liệt mạng máy tính của Chính phủ Trung Quốc.
Để ứng phó với những lo ngại này, Trung Quốc đang đạt được một số tiến bộ trong việc phát triển các hệ điều hành bản địa. Công ty Linx Software của Gong là một trong số nhiều công ty đã giúp ra mắt phiên bản đầu tiên của hệ điều hành máy tính để bàn nguồn mở OpenKylin tại Trung Quốc vào năm 2023. Theo trang web của Linx Software, MSS và các sở an ninh nhà nước cấp tỉnh khác hiện đang sử dụng máy chủ bảo mật và hệ điều hành của Linx.
Một lý do khác đằng sau việc Trung Quốc phát triển phần mềm nội địa là quyết tâm không phụ thuộc vào hệ điều hành nước ngoài và nguy cơ bị các Chính phủ phương Tây ngăn chặn việc sử dụng chúng khi có những biến cố địa chính trị lớn diễn ra. Windows vẫn là hệ điều hành chiếm ưu thế tại Trung Quốc, điều đó có nghĩa là Mỹ và các đối tác của họ có thể đáp trả các hành vi từ phía Bắc Kinh bằng cách buộc Microsoft thông qua luật pháp hoặc kiểm soát xuất khẩu, thu hồi giấy phép phần mềm hoặc ngừng hỗ trợ các công ty Trung Quốc. Ví dụ, năm 2020, 02 trường đại học Trung Quốc đã bị cấm sử dụng phần mềm MATLAB của Mỹ theo Quy định của Cục Quản lý Xuất khẩu Mỹ do có mối quan hệ với lực lượng vũ trang Trung Quốc.
Trong khi các chính sách của Bắc Kinh đang bắt đầu làm xói mòn sự thống trị của Windows tại Trung Quốc, thì cho đến nay các công ty địa phương chỉ xây dựng các giải pháp thay thế sử dụng phần mềm nguồn mở hiện có. Ví dụ, phiên bản đầu tiên hệ điều hành di động của Huawei, HarmonyOS không có sự khác biệt rõ rệt so với Android của Google. Mô hình ngôn ngữ lớn (LLM) Yi-34B do công ty khởi nghiệp 01.AI của Kaifu Lee có trụ sở tại Bắc Kinh phát hành có cùng kiến trúc với LLM nguồn mở của Meta, Llama, một sự thật chỉ được thừa nhận sau khi các nhà phát triển khác chỉ ra. Và OpenKylin được coi là bản phối lại của Ubuntu, một phiên bản nguồn mở của hệ điều hành Linux.
Trong nỗ lực xây dựng phần mềm nguồn mở của riêng mình, không có gì ngạc nhiên khi Linux là một ví dụ về hệ điều hành phương Tây đang được mô phỏng. Linux là một trong những hệ điều hành an toàn nhất nhờ vào cộng đồng kỹ sư nguồn mở toàn cầu săn lùng lỗ hổng bảo mật và vá lỗi phần mềm.
Hệ điều hành vẫn có thể có lỗi hoặc lỗ hổng chưa biết mà các cơ quan tình báo nước ngoài có thể khai thác, ngay cả khi chúng được xây dựng bởi các kỹ sư đáng tin cậy. Điều đó giải thích tại sao các nền tảng nguồn mở mới của Trung Quốc đang dựa vào tài năng nước ngoài để phát triển. Gitee là một giải pháp thay thế được nhà nước hậu thuẫn cho GitHub, nền tảng mã nguồn mở của Microsoft. Đây là một trong số ít trang web Trung Quốc cho phép người dùng đăng ký bằng tài khoản Google, cho thấy họ muốn các nhà phát triển ở nước ngoài đóng góp vào các dự án của mình.
Bắc Kinh đang chặn các công ty phần mềm nước ngoài thao túng thị trường nội địa. Hugging Face, một nền tảng mã nguồn mở phổ biến được phát triển cả ở Pháp và Mỹ lưu trữ các mô hình và công cụ học máy, được cho là đã không thể truy cập được ở Trung Quốc vào năm ngoái. Tương tự như vậy, có những câu hỏi về việc GitHub sẽ vẫn có thể truy cập được ở Trung Quốc trong bao lâu.
Hệ điều hành nguồn mở đầu tiên của Trung Quốc ra đời
Bối cảnh trên đã thúc đẩy Trung Quốc nhanh chóng phát triển và quảng bá một Hệ điều hành máy tính mới. Theo một báo cáo mới từ Trung Quốc, quốc gia này đã ra mắt hệ điều hành máy tính để bàn (OS) nguồn mở đầu tiên có tên là OpenKylin 1.0, đánh dấu bước đột phá trong việc xây dựng hệ thống phần mềm độc lập.
Động thái này là một phần trong nỗ lực lớn hơn của quốc gia này nhằm tự đứng vững trên đôi chân của mình về công nghệ và khoa học, sẽ thu hẹp hơn nữa khoảng cách với các công nghệ phương Tây thống trị trong lĩnh vực này, các nhà quan sát trong ngành cho biết.
Phiên bản OpenKylin 1.0 đã hoàn tất việc lựa chọn và nâng cấp hơn 20 thành phần cốt lõi của hệ điều hành. Zhu Chen, Phó Chủ tịch cấp cao của Kylinsoft, một công ty con của Tập đoàn Điện tử Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước cho biết: "Chúng tôi đã thử nghiệm một số phiên bản trước phiên bản 1.0, điều này có nghĩa là chúng tôi đã dần thúc đẩy khả năng tự phát triển hệ điều hành máy tính để bàn. Chúng tôi hy vọng phiên bản mới sẽ thu hút nhiều nhà phát triển hơn".
Theo một tuyên bố được công ty phần mềm Kylinsoft gửi tới tờ Thời báo toàn cầu của Trung Quốc, hệ điều hành của họ dựa trên Linux được xây dựng bởi một cộng đồng gồm 3.867 nhà phát triển, 74 nhóm lợi ích đặc biệt và 271 công ty. Kylinsoft đã triển khai cộng đồng gốc đầu tiên của hệ điều hành máy tính để bàn OpenKylin vào năm ngoái, trong nỗ lực tập hợp sức mạnh của ngành để thúc đẩy sự phát triển của hệ sinh thái nguồn mở của Trung Quốc. Công ty phần mềm Trung Quốc này được xếp hàng đầu về thị phần trong phân khúc hệ điều hành Linux trong nước. Chuỗi sản phẩm hệ điều hành của công ty có thể được sử dụng trên cả máy tính cá nhân và điện thoại di động; được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như hải quan, năng lượng và các tổ chức tài chính.
Việc ra mắt hệ điều hành máy tính để bàn nguồn mở đầu tiên đánh dấu nỗ lực mới nhất của Trung Quốc trong việc phát triển phần mềm trong nước nhằm giảm sự phụ thuộc vào các công nghệ phương Tây. Hệ điều hành trong nước được coi là chìa khóa để đóng vai trò là trụ cột thúc đẩy xây dựng cơ sở hạ tầng mới và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế kỹ thuật số hoàn toàn độc lập và tự chủ của Trung Quốc mà không hề phụ thuộc vào nước ngoài.
NHỮNG ĐỘNG LỰC VÀ BÀI HỌC GIÚP VIỆT NAM PHÁT TRIỂN HỆ ĐIỀU HÀNH BẢN ĐỊA
Những động lực và bài học rút ra đối với Việt Nam
Những bài học rút ra từ việc xây dựng hệ điều hành mã nguồn mở OpenKylin của Trung Quốc đặt ra một câu hỏi mà chúng ta cần quan tâm là tính khả thi của dự án xây dựng hệ điều hành nội địa tự chủ của Việt Nam? Việt Nam đã đi sau sự phát triển công nghệ của Trung Quốc nhiều năm, nhưng hoàn toàn có thể bắt kịp trong một số lĩnh vực hẹp nhất định, cụ thể như làm chủ hệ điều hành bản địa của Việt Nam với những lý do như sau:
- Ngành công nghiệp phần mềm liên tục phát triển với sự hậu thuẫn của cả sự phát triển phần cứng khiến tốc độ xử lý, dung lượng bộ nhớ và ngày càng nhiều công cụ và ngôn ngữ lập trình mới ra đời, cũng như AI là công nghệ phần mềm phát triển không ngừng và vượt bậc trong những năm qua.
- Do xu thế hội nhập từ rất sớm của ngành CNTT của Việt Nam, đội ngũ kỹ sư Việt Nam đã có tay nghề cao được đào tạo bài bản chính quy và được tu nghiệp ở nước ngoài cũng như có kinh nghiệm thực chiến tại các công ty phần mềm lớn trên thế giới ngày càng nhiều.
- Việt Nam đã từ lâu có được đội ngũ nghiên cứu khoa học về CNTT đã được thế giới xác nhận và đánh giá rất cao về khả năng nghiên cứu cũng như tự lực tự cường của ngành CNTT của Việt Nam.
- Việt Nam không bị cấm vận công nghệ như Trung Quốc trong nhiều năm qua. Đây là một lợi thế giúp Việt Nam hoàn toàn có thể tăng cường hợp tác về công nghiệp phần mềm hướng tới nội địa hóa và làm chủ hoàn toàn hệ điều hành bản địa của mình.
- Việt Nam có sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc bơm vốn xây dựng hệ sinh thái phát triển ngành công nghiệp phần mềm với nhiều công ty được giao các nhiệm vụ cụ thể hỗ trợ cho ngành công nghiệp phần mềm. Cùng với một hệ thống quản lý chặt chẽ với một đầu ra nghiệm thu chi tiết và cụ thể, Việt Nam hoàn toàn có thể tự tin về tính khả thi và sự thành công giống như cách mà Trung Quốc và nhiều nước đã làm.
- Xây dựng hệ điều hành bản địa dựa trên một hệ điều hành mở có sẵn như Linux hay Kilyn sẽ dễ dàng hơn rất nhiều, dù yêu cầu cao về sự hiểu biết sâu sắc, nắm bắt và tích hợp phần mềm nhưng đây vẫn là điều hoàn toàn khả thi đối với Việt Nam.
- Hệ điều hành bản địa do Việt Nam tự phát triển rất quan trọng cho các cơ quan nhà nước cần bảo vệ hệ thống máy tính và các hệ thống dữ liệu liên quan. Dù thời gian đầu hệ điều hành này chưa đạt được việc sử dụng thuận lợi như các hệ điều hành của nước ngoài. Nhưng với thời gian hệ điều hành này được cải tiến hoàn thiện, nó sẽ trở lên tiện dụng và sẽ được sử dụng ở nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội ở nước ta.
Chiến lược phát triển dài hạn giúp Việt Nam tự chủ về khoa học – công nghệ
Việc Việt Nam tự chủ về Hệ điều hành nói riêng và tự chủ về khoa học - công nghệ (KHCN) nói chung, cần có tầm nhìn và chiến lược phát triển rõ ràng. Như định hướng của Đảng và Nhà nước cho kỷ nguyên “tự chủ, tự lực và tự cường”, Việt Nam cần duy trì đầu tư mạnh mẽ và nhiều hơn nữa vào giáo dục đào tạo (GDĐT) và khoa học kỹ thuật. Đây chính là nền tảng trọng yếu để phát triển nhân lực cho kỷ nguyên mới khi công nghệ cao và GDĐT đã trở thành xương sống phát triển của các cường quốc công nghệ. Khi nguồn tiền đầu tư lớn từ nước ngoài đổ vào Việt Nam, chúng ta rất cần có 05 yếu tố chuẩn bị một hạ tầng bền vững và tận dụng nguồn vốn này để phát triển đất nước sâu rộng cho nhiều thế hệ mai sau, cụ thể bao gồm:
- Thứ nhất, trong công cuộc xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở nước ta các hệ thống dữ liệu quan trọng đều mang các đặc trưng của một hệ thống dữ liệu lớn. Đó là (i) Dung lượng lớn, (ii) Tính đa dạng của dữ liệu: phương thức thu thập và các loại dữ liệu rất phong phú từ dữ liệu dạng bảng, văn bản, đồ thị đến dữ liệu âm thanh, hình ảnh, video, web,…(iii) Tốc độ: việc thu thập và phân tích dữ liệu phải được tiến hành nhanh chóng và kịp thời, (iv) Tính giá trị: các phương pháp xử lí dữ liệu phải tìm và phát hiện ra những giá trị mà thực chất là các tri thức từ các hệ thống dữ liệu này.
Vì thế chúng ta cần làm chủ các phương pháp lưu trữ và xử lý dữ liệu lớn ( Phần mềm hệ thống HADOOP, ngôn ngữ lập trình SCALA,…) , cũng như cần tập trung hóa dữ liệu toàn quốc (đây là tài sản lớn của quốc gia) và phần mềm hóa toàn diện bộ máy nhà nước để tăng cường sự hiệu quả trong quá trình quản lý, thu hẹp thời gian ra quyết định. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần đề phòng sự tấn công không gian mạng của các thế lực thù địch.
- Thứ hai, Việt Nam cần thay đổi sang tư duy “tự lực - tự cường” trong cách tiếp cận, tuyên truyền văn hóa tư tưởng mạnh mẽ trong toàn dân, cũng như đẩy mạnh GDĐT và KHCN trong kỷ nguyên vươn mình này.
- Thứ ba, Việt Nam xây dựng 3 trọng điểm để phát triển KHCN và GDĐT bao gồm: Nâng cấp và đổi mới các dự án trọng điểm cấp quốc gia liên quan đến các vấn đề an ninh quốc gia, an ninh công nghệ và an ninh kinh tế; Phát triển các ngành khoa học cốt lõi mà Nhà nước có chính sách trọng điểm và các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia tại các trường đại học và viện nghiên cứu; Phát triển các khu công nghiệp hoặc công nghệ cao.
- Thứ tư, để trở thành kỷ nguyên tự lực - tự cường trong công nghệ cao, Việt nam cần xây dựng và phát triển nhân tài trong nước, kết hợp với một chiến lược chính sách xây dựng và phát triển KHCN liên hoàn, đồng bộ, thống nhất từ trên xuống dưới và quyết liệt triển khai dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và Nhà nước; xác định triển khai chiến lược này với các giai đoạn khác nhau nhưng cần hướng tới tầm nhìn dài hạn hàng chục năm chúng ta có thể có được những sự đột phá và thay đổi lớn.
- Thứ năm, Nhà nước cần là đầu tàu chỉ huy, là đơn vị đầu tư với chiến lược, đề bài cụ thể cho những hạ tầng công nghệ trọng yếu để đảm bảo xây dựng và quản lý chiến lược tự chủ tự cường về KHCN.
KẾT LUẬN
Kinh nghiệm phát triển hệ điều hành OpenKylin của Trung Quốc cho thấy sự kiên trì, đầu tư chiến lược và quyết tâm tự chủ công nghệ là yếu tố then chốt. Việt Nam, với những lợi thế nhất định về nguồn nhân lực và sự hỗ trợ của Nhà nước, hoàn toàn có khả năng học hỏi và xây dựng một hệ điều hành bản địa vững mạnh. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần có chiến lược dài hạn, đầu tư vào GDĐT và KHCN, đồng thời tận dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước và quốc tế để phát triển một hệ sinh thái phần mềm tự chủ, góp phần bảo đảm an ninh mạng và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế số quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO [ 2]. https://www.belfercenter.org/sites/default/files/GreatTechRivalry_ChinavsUS_211207.pdf. |